QUẺ 36: ĐỊA HỎA MINH DI

Quẻ Địa Hỏa Minh Di, đồ hình còn gọi là quẻ Minh Di, là quẻ thứ 36 trong Kinh Dịch.

Nghĩa của quẻ

Quẻ Địa Hỏa Minh Di mang ý nghĩa về thương đau, hại đau. Đại diện cho những thiệt hại, bệnh hoạn, buồn lo, đau lòng và ánh sáng bị tổn thương. Hình ảnh chính của quẻ này là gai góc đầy đường.

Theo quá khứ, có một thời kỳ thương tôn Trấn và Tấn, mặt trời (ly) lặn xuống đất (Khôn), ánh sáng bị tổn thương, trở nên tối đi (Minh di). Những người chiến binh sống trong thời kỳ u ám này phải đối mặt với nhiều khó khăn, chỉ có cách giữ đức chính trinh của mình thì mới có lợi. Để làm được điều đó, họ cần giữ đức trong lòng, và phải hợp tác một cách thuận lợi để chống lại sự hại hận, tượng tương của quẻ Ly là sáng văn minh ở nội quái, Khôn là thuận lợi ở ngoại quái. Vua Văn Vương bị vua Trấn nghi ngờ, bị giam vào ngục Dữu Ly, thể hiện sự rất thuận, không chống đối Trấn, mà đổ hết tâm trí vào việc viết Thoán từ giảng các quẻ trong Kinh Dịch, nhờ đó Trấn không có cớ để giết ông, sau đó thả ông ra.

Không chỉ ngoài phải tỏ vẻ thuận lợi, có khi còn nên che giấu sự sáng suốt của mình đi nữa, mà trong lòng vẫn giữ chí hướng, như Cơ Tử – một hoàng thân của Trấn. Trấn vô đạo, Cơ Tử không thể, giả điên, làm nô lệ, để tránh bị giết, mong có cơ hội tái tạo lại nhà Ân; khi nhà Ân mất, ông không chết với Trấn, cũng không rời nước đi. Võ vương – con Văn Vương – diệt Trấn rồi, trọng tư cách Cơ Tử, mời ra giúp nước, ông không chịu; sau Võ vương cho ra ở Triều Tiên, lập một nước riêng. Như vậy là Cơ Tử giấu sự sáng suốt của mình để giữ vững chí, không làm mất dòng dõi nhà Ân (Hối kỳ minh, nội nạn nhi năng chính kỳ chi chí – Thoán truyện).

Đại tướng truyện Bảo quân tử gặp thời Minh di, muốn thống ngự quần chúng nên dùng cách kín đáo mà lại thấy rõ (dụng hối nhi minh), nghĩa là dùng thủ đoạn làm ngơ cho kẻ tiểu nhân, đừng rách rồi, nghiêm khắc quá mà sẽ bị hại, tổng kết lại là làm bộ như không biết để chúng không nghi ngờ mình và để lộ hết dụng tâm của chúng ra mà mình sẽ biết được. Cơ hồ tác giả Bảo quân tử muốn dùng thuật của Hàn Phi.

Các nét đặc biệt của các cấp quẻ

  1. Sơ cửu (初九): Ở thời u ám (ánh sáng bị tổn thương), hào này như con chim muốn bay mà cánh rũ xuống. Người quân tử biết thời cơ thì bỏ đi ngay, mặc (không có tiền) phải nín đói ba ngày, mà đi tới đâu, gặp chủ cũ, cũng bị chủ cũ chê trách.

  2. Lục nhị (六二): Ở thời ánh sáng bị tổn thương, hào này như bị đau ở đùi bên trái, nhưng cũng nhanh khỏi, sẽ như con ngựa mạnh mẽ tiến lên, tốt.

  3. Cửu tam (九三): Ở thời ánh sáng bị tổn thương, đi tuần về phương Nam, bắt được kẻ đầu sót, nhưng đừng hành động gấp, phải bền chí.

  4. Lục tứ (六四): Như vô phía bên trái của bụng (ý nói chỗ u ám); tấm lòng ở thời u ám (minh di) là nên bỏ nhà mà ra đi.

  5. Lục ngũ (六五): Như ông Cơ Tử ở thời u ám (Minh di), cứ bền giữ đạo chính thì lợi.

  6. Thượng lục (上六): Không còn là ánh sáng bị tổn thương nữa, lên cao tới trời mà rồi sụp xuống đất.

Quẻ này khuyên người quân tử ở thời hắc ám qua thì có thể bỏ nhà, nước mà đi; hoặc muốn ở lại thì giấu sự sáng suốt của mình mà giữ vững đạo chính để chờ thời.