Tụng Bạch Y Thần Chú Bồ Tát Cảm Ứng

Lúc tôi đang sống ở Bắc Bình, trong lúc đọc sách, tôi tình cờ nhận được một bản sách kèm theo Bạch y thần chú của Bồ Tát Quan Thế Âm. Tôi đã nảy sinh sự kính ngưỡng và quyết định học thuộc trì tụng này một cách thường xuyên.

Sau đó, khi tôi chuyển công tác đến Giang Tô, huyện Câu Dung, tôi thường xuyên đi ngang qua Am Quan Âm và dừng lại để trì chú, thảo giảng và chiêm ngưỡng thánh tượng. Điều này đã trở thành một thói quen quan trọng trong cuộc sống hàng ngày của tôi.

Vào mùa đông năm 1937, khi quân Nhật xâm nhập, tình hình tại huyện Câu Dung trở nên khẩn trương. Nam Kinh và Hàng Châu trở thành khu vực giao thông tắc nghẽn.

Để đảm bảo an toàn, tôi đã mượn một chiếc xe để đưa thân quyến của mình đến Trấn Giang trước, sau đó từ Trấn Giang đi đến Hoài Âm để họ tạm lánh nạn. Dự tính là sau đó chúng tôi sẽ cùng nhau đến Vũ Hán.

Sau khi đưa họ đi, khoảng 8 giờ sáng hôm sau, vợ tôi gọi điện từ Trấn Giang và báo tin rằng trong lúc họ vượt qua sông Bắc Giang và đến Miếu Tiên Nữ, thì giao thông bị chặn đứng. Do đó, họ buộc phải quay trở lại Trấn Giang và không thể đến Hoài An. Việc trở về Câu Dung cũng không dễ dàng. Hiện tại, họ tạm ngụ tại bến đò gần khách sạn và đang chờ đợi tôi đến để đưa ra quyết định tiếp theo.

Khi tôi nghe tin này, tôi không biết phải làm gì. Trước tiên, hiện tại không có xe để đến Trấn Giang. Thứ hai, nếu tôi đến Trấn Giang, tôi phải làm thế nào để giải quyết cho thân quyến của tôi? Thứ ba, nếu tôi đi đến đó, tôi sẽ không thể quay trở lại Câu Dung. Và tôi đang phải tuân thủ nhiệm vụ công việc theo lệnh của cấp trên, không có quyền tự ý rời bỏ công việc, đặc biệt là vào thời điểm như thế này.

Trong sự bối rối, tôi chỉ biết cầu nguyện Bồ-tát gia hộ, vì không còn cách nào khác.

Sau khi để điện thoại xuống, tâm trí tôi hoang mang và tôi đi ra khỏi công sảnh. Tại đây, tôi bất ngờ thấy có một chiếc xe đậu tại đây. Tôi vội tiến lại gần để hỏi xe đi đâu. Thật may mắn và trùng hợp là xe có định đến Trấn Giang. Tôi rất vui mừng vì điều này đã vượt xa những gì tôi mong đợi.

Sau khi lên xe, tôi mới hỏi xe từ đâu đến. Tài xế cho biết rằng anh được phái đến đây để vận chuyển văn kiện quan trọng. Tôi hỏi:

  • Tại sao xe vẫn chưa xuất phát?

Anh đáp:

  • Có người đã quên đồ và đang đi lấy, vì vậy xe chưa khởi hành.

Trong lòng tôi tự hỏi: “Chiếc xe này dường như đang đợi tôi. Nếu không có người quên đồ, xe đã khởi hành sớm và tôi làm sao có cơ hội để qua sông? Tất cả những trùng hợp này, nếu không phải do sự ban phước của Bồ-tát, thì làm sao có thể xảy ra đúng lúc, đúng thời điểm như vậy?”…

Khi đến Trấn Giang, tôi quyết định đưa thân quyến của tôi đi đến Vũ Hán trước. Hiện tại, không có đường nào khác để đi.

Tại Trấn Giang, mọi người đều trong tình trạng hoảng loạn, muốn sơ tán. Hiện có một con tàu buôn của Anh đậu ở bến Giang Tâm, đây là con tàu cuối cùng đến Vũ Hán. Mặc dù con tàu chỉ khởi hành lúc nửa đêm, nhưng vé đã được bán hết.

Người muốn lên tàu phải đi qua con thuyền nhỏ, giơ cao tay để đưa vé lên trình. Nếu không, thủy thủ Anh Quốc sẽ sử dụng súng nước để ngăn chặn không cho lên thuyền.

Nghe nói thuyền đã quá tải, không thể chứa quá số người đã quy định.

Tôi đứng trên bờ nhìn xuống con thuyền, chỉ thấy đám hành lý chất đống, hành khách ngủ trên sàn trống.

Trên bến, mọi người đấu tranh để chen chúc, có nhiều người thậm chí muốn mua vé với giá rất cao, nhưng không ai chịu bán.

Vì tôi là người xa lạ, không biết tiếng địa phương, nên tôi không dám kỳ vọng rằng tôi có thể đưa vợ con lên tàu. Mặc dù vậy, tôi vẫn rất nuối tiếc và buồn bã đứng tại cảng rất lâu, rồi thất vọng quay lại khách sạn.

Trong khi bế tắc và không tìm ra giải pháp nào để sắp xếp cho thân quyến của mình, vợ chồng tôi chỉ nhìn nhau và thở dài. Tình hình lúc đó trở nên khẩn cấp, và khi nhớ lại, tôi vẫn cảm thấy sợ hãi.

Khi tôi đến bước đường cùng như vậy, tôi chỉ còn biết nguyện cầu Bồ-tát gia hộ, vì không còn cách nào khác.

Trong khi tôi âm thầm khấn nguyện, bỗng có một người lao vào quán trọ, tay nắm lấy một chùm vé và đòi bán cho tôi.

Ông ta nói rằng do có việc gấp nên ông không thể lên tàu, và giờ ông muốn nhường vé cho tôi với giá không đổi. Ông còn nói rằng trong thời kỳ “binh hoàng mã loạn” như hiện nay, ông không muốn làm giàu bằng tiền bất lương nên không lấy giá cao…

Tôi cảm thấy như chết đuối gặp phao cứu, và tôi rất biết ơn người lạ đã nhường vé để vợ con tôi có thể tránh khỏi nguy hiểm. Nhân viên khách sạn chứng kiến cảnh này đều rất ngạc nhiên, không hiểu tại sao trong thời điểm khốn khó như vậy mà tôi vẫn có thể mua được vé tàu và cảm ơn ông ta với giá tốt.

Anh ta tỏ ra thắc mắc vì sao người lạ lại tìm đến đúng nơi và trực tiếp đề nghị bán vé cho tôi mà không phải ai khác. Anh ta không hiểu tại sao ông ta đã sẵn lòng bán với giá đã mua, mà không cần lợi nhuận…

Tôi hiểu rõ rằng điều này xảy ra nhờ sự trợ giúp tài tình của Bồ-tát, và tôi không nói gì, chỉ cảm kích đưa vợ con tôi đi.

Do tôi đang mang nhiệm vụ, tôi chỉ có thể nhìn thấy vợ con lên tàu và chia tay. Tôi không thể biết được liệu chúng tôi có thể đoàn tụ với gia đình ở Vũ Hán hay không? Điều này không thể đoán trước.

Trong thời khắc này, mọi người đều đối diện với nỗi đau, tình trạng thảm họa của quốc gia, và giấc mơ gặp lại đột ngột biến thành một điều xa vời. Vì vậy, mọi người cùng chia sẻ cùng một tâm tư đau khổ và buồn bã.

Sau khi chia tay vợ con, tôi đi như một kẻ mất hồn, không biết mình đang đi trên đường nào, con đường nào? Tôi chỉ tỉnh lại khi nhớ đến trách nhiệm công việc của mình và lo lắng trong lòng: Làm sao tôi có thể trở về Câu Dung?

Mỗi khi nghĩ đến điều này, tôi càng bối rối. Bỗng nhiên, tôi nghe thấy hai người trước con hẻm đang cãi nhau. Hóa ra là xe hàng họ đã đỗ ở đây, và chủ xe cùng tài xế đang tranh cãi. Tôi vội vàng tiến lại gần để hỏi họ đi đâu. Họ nói: “Về Nam Kinh (đi qua Câu Dung)”.

Tôi nghe được tin tức này, tôi rất vui mừng và năn nỉ xin được đi cùng. Từ đó, tôi đã trở về Câu Dung.

Ngay khi xuống xe, tôi ngay lập tức gặp tượng Quan Âm và cúi đầu thờ phượng. Cùng lúc đó, tôi đã rút một thẻ xăm thỉnh ý xem liệu có nên đến Vũ Hán để đoàn tụ với gia đình hay không? Trên thẻ viết như sau:

“Muốn vin nhành quế đến cung hằng
Lo gì đường mình đi chẳng an?
Thong thả đợi chờ tin tức tốt
Cao nhân đưa tiễn đến vẹn toàn”

Sau đó, thật không ngờ, tôi đã kết bạn với Quận trưởng của Câu Dung và được ông đưa đi Vũ Hán để đoàn tụ với gia đình.

Từ trải qua trải nghiệm kỳ diệu này, tôi đã trì tụng Bạch y thần chú một cách chân thành. Nếu tôi đã bỏ sót việc trì tụng, tôi đã cố gắng lấy lại bù đắp bằng cách trì tụng nhiệt tình.

Vào năm 1941, tôi nhận được nhiệm vụ tại Hà Nam và trong cơ quan có một khẩu súng trường. Tôi thích cầm và chơi đùa với khẩu súng và để súng đó trong phòng ngủ. Thông thường, tôi luôn lấy đạn ra và chỉ để súng để chơi.

Lúc đó, vợ tôi đang mang thai đứa con thứ hai. Cô ngồi trên giường đối diện khẩu súng (tôi đã đặt ở trước cô). Vì tôi chắc chắn rằng súng không có đạn, nên tay quen chơi đùa, tôi vô tình chạm vào chốt súng và bắn lẫy.

Tôi cảm thấy như có điều gì đó ngăn đạn trong nòng súng, lòng bồn chồn không yên, và tôi rất tò mò, vì vậy tôi nhanh chóng kiểm tra súng. Thật ngạc nhiên khi tôi thấy một viên đạn nằm giữa họng súng.

Lúc đó, tôi sợ đến tay chân run rẩy, mặt tái nhợt. Vợ tôi nhìn thấy điều này và trách tôi:

  • Tôi luôn nhắc anh không nên chơi súng để tránh nguy hiểm. Hôm nay nếu không phải nhờ viên đạn hư, thì có lẽ chúng ta đã gặp thảm họa rồi!

Tôi vào một tình huống không thể tiếp cận khẩu súng nữa, vì tôi không còn can đảm để chạm vào nó, và tôi gọi đội trưởng Kiều đến và yêu cầu ông lấy đạn ra giúp và kể lại cho ông nghe mọi chuyện.

Ông thấy viên đạn đã nằm trong họng súng, và ông nói:

  • May mà viên đạn hư, nếu không thì đã nguy hiểm rồi!

Khi ông lấy viên đạn ra, vì tò mò, ông lắp viên đạn vào và đi ra ngoài để thử bắn vào không trung. Một tiếng “đoành” vang lên, viên đạn bay lên.

Các đồng nghiệp chạy ra hỏi thăm khi thấy súng phát ra tiếng súng và viên đạn vẫn nổ bình thường. Lúc đó, chúng tôi chỉ có thể nhìn nhau… mắt mở tròn. Mọi người thốt lên: “Rất kỳ lạ!”.

Đội trưởng Kiều luôn khen tôi có phúc sâu đậm, và tôi biết rằng niềm phúc đó đến từ đâu mà không gặp tai họa lớn. Thực ra, tôi nên cầu nguyện cảm tạ đức Quan Âm về điều này.

Sau khi chuyển đến Đài Loan, tôi luôn thờ Bồ-tát Quan Thế Âm. Vào mùa thu năm 1950, đứa con thứ hai của tôi bị sốt cao và co giật. Cháu bị cứng cơ, và hai mắt chớp chớp, rung động không ngừng.

Chúng tôi đưa cháu vào bệnh viện Đài Trung và bác sĩ chuẩn đoán cháu bị viêm não. Sau khi nhập viện một tuần, cháu vẫn mơ màng, không thể uống một giọt nước và có cơn co giật.

Thấy tình hình các như vậy, lòng tôi đau đớn. Tôi âm thầm nguyện cầu lễ bái của Bồ-tát và cầu Ngài ban ân gia hộ.

Tôi chỉ mới trì chú ba biến, thì cháu ngủ thiếp đi. Giữa đêm, tôi nghe thấy cháu kêu gọi muốn uống nước, tôi nhanh chóng mang nước tới.

Nhưng cháu không uống, chỉ lấy tay cầm chén đẩy qua một bên, làm cho mền chăn trên giường ướt.

Sau đó, cháu lại ngủ thiếp đi. Nhưng các cơn co giật không còn tồn tại nữa.

Khi tỉnh lại lần sau, cháu đã có thể mở mắt và nhìn xung quanh, tỏ ra tỉnh táo hơn. Tôi hỏi cháu:

  • Con biết mình đang nằm ở đâu không?

Cháu trả lời:

  • Không biết.

Tôi tiếp tục hỏi:

  • Hôm qua uống nước, con có tìm gì không, nhớ không?

Cháu trả lời:

  • Lúc đầu, cháu đẩy nước cho một đứa nhỏ đến uống, lần sau cháu mới tự uống. Nhưng cái mũ bị đứa nhỏ đó mang đi rồi.

Tôi hỏi:

  • Đứa bé đó đến từ đâu?

Cháu trả lời:

  • Cháu đang chơi đùa ở khu vực này, thì đứa bé ấy muốn đưa cháu về nhà. Lúc nó đi cũng mang mũ của cháu theo luôn.

Ban đầu, tôi không biết rằng đó là sự gia hộ của Bồ-tát, sau đó tôi hiểu câu “Muốn đưa con về nhà, cầm mũ đi”…

Điều này không phải là việc Bồ-tát chữa khỏi khổ đau và bệnh tật, khiến cháu tỉnh lại như trước?

Sau đó, tôi không thể ngừng niệm danh Ngài.

Kể từ đó, sức khỏe của cháu dần được cải thiện, và chưa đến hai tuần, cháu được xuất viện. Hơn nữa, cháu không để lại di chứng gì. Điều này thực sự rất kỳ diệu và may mắn.

Bồ-tát Quan Thế Âm được coi là lái thuyền từ, giúp đỡ Phật A Di Đà và cứu độ chúng sinh thoát khỏi khổ hải, đến bờ bình an.

Tại sao chúng ta không tôn kính và lễ bái Bồ-tát Quan Thế Âm với tấm lòng chân thành, và trì niệm tên danh Ngài?

Huệ Tịnh – 8/10/1961 – Bồ Đề Thọ Nguyệt San 107

Giải thích Chú Bạch Y Đại Sĩ (Thần Chú Bạch Y) – Ngài Thánh Nghiêm giảng

Bài chú này xuất phát muộn, không biết có nguồn gốc từ kinh nào, dịch bởi ai! Nhưng đại khái, chú này cũng có nguồn gốc từ sự hóa hiện của Đại sĩ và trở thành một pháp môn đươc người thọ trì, nhưng không phải được truyền dịch từ Ấn Độ.

Câu chú này nói về các vị thần như thiên la thần, địa la thần, nhân ly nạn, nạn ly thân, nhất thiết tai ương hóa vi trần.

Câu chú này tương đương với văn hóa dân gian và gần gũi, phù hợp với tín ngưỡng Phật giáo dân gian.

Tóm lại, chú này cũng là một cấp bậc, giai đoạn tu tập trong Phật pháp.